Tính vị rết quy kinh, thành phần thấy rõ “thuốc tán rết trị nhọt độc” có tác dụng trị ung thư thực quản rất hiệu quả.

“Y dược trung trung tham tây lục” ghi: “rết, sức nó đi xuyên nhanh nhất, trong vào đến tạng phủ, ngoài đến kinh lạc, ngoài khí huyết ngưng tụ đều có thể khai”.

Con rết chữa ung thư thực quản

“Chứng ung thư thực quản phần nhiều do ứ máu phía trên dạ dày, xem như thế thì con rết còn là vật phẩm cần thiết để trị ung thư thực quản”.

Cách chữa ung thư thực quản bằng con rết

Phương thuốc: 20 con rết, 30g con đỉa nước, 20g nhân sâm.

Cách dùng: Các vị thuốc trên nghiền thành bột, mỗi lần uống 3 – 5g, ngày 2 lần, 15 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Ung thư thực quản.

Hiệu quả trị liệu: Dùng phương thuốc trên điều trị 3 trường hợp ung thư thực quản, sau khi uống 3 liệu trình thuốc, 1 bệnh nhân sống được 6 năm, 2 bệnh nhân phẫu thuật trị liệu.

Ví dụ: Bệnh nhân nam 61 tuổi, tháng 4 năm 1988 khám bệnh, khai nuốt thức ăn khó ăn, đã nghẹn 3 tháng, chụp X quang xác định ung thư thực quản, vì nhiều nguyên nhân, không muốn phẫu thuật. Sau khi uống thuốc 3 tháng, ung thư thực quản chuyển bớt, có thể ăn cháo, tiếp tục uống 1 tháng, tự cảm thấy triệu chứng mất tiêu, sống được 6 năm.

Thuốc loại trùng khéo ở đục khoét, công cứng phá ung, là dược vật được lựa chọn đầu tiên để trị ung thư, nhưng không thể gấp công cận lợi, có ý định dùng mạnh, làm mở rộng của chứng ung thư, thường thích hợp phản lại nó. Chính khí là nguồn suối sinh hóa của cơ thể người, lại là thể hiện trập trung sự hoạt động sinh mạng, nó đại biểu cho sự mạnh yếu của năng lực kháng bênh, quyết định sự thịnh suy của sinh cơ, cho nên thời khắc duy trì chính khí là trên hết. Bệnh nhân bị ung thư đã phẫu thuật và chính khí suy yếu cực độ, chớ dùng thuốc loại trùng đục khoét chứng ung thư.

Chữa ung thư thực quản bằng con rết

Tính vị rết quy kinh, thành phần thấy rõ “thuốc tán rết trị nhọt độc” có tác dụng trị ung thư thực quản rất hiệu quả.

“Y dược trung trung tham tây lục” ghi: “rết, sức nó đi xuyên nhanh nhất, trong vào đến tạng phủ, ngoài đến kinh lạc, ngoài khí huyết ngưng tụ đều có thể khai”.

Con rết chữa ung thư thực quản

“Chứng ung thư thực quản phần nhiều do ứ máu phía trên dạ dày, xem như thế thì con rết còn là vật phẩm cần thiết để trị ung thư thực quản”.

Cách chữa ung thư thực quản bằng con rết

Phương thuốc: 20 con rết, 30g con đỉa nước, 20g nhân sâm.

Cách dùng: Các vị thuốc trên nghiền thành bột, mỗi lần uống 3 – 5g, ngày 2 lần, 15 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Ung thư thực quản.

Hiệu quả trị liệu: Dùng phương thuốc trên điều trị 3 trường hợp ung thư thực quản, sau khi uống 3 liệu trình thuốc, 1 bệnh nhân sống được 6 năm, 2 bệnh nhân phẫu thuật trị liệu.

Ví dụ: Bệnh nhân nam 61 tuổi, tháng 4 năm 1988 khám bệnh, khai nuốt thức ăn khó ăn, đã nghẹn 3 tháng, chụp X quang xác định ung thư thực quản, vì nhiều nguyên nhân, không muốn phẫu thuật. Sau khi uống thuốc 3 tháng, ung thư thực quản chuyển bớt, có thể ăn cháo, tiếp tục uống 1 tháng, tự cảm thấy triệu chứng mất tiêu, sống được 6 năm.

Thuốc loại trùng khéo ở đục khoét, công cứng phá ung, là dược vật được lựa chọn đầu tiên để trị ung thư, nhưng không thể gấp công cận lợi, có ý định dùng mạnh, làm mở rộng của chứng ung thư, thường thích hợp phản lại nó. Chính khí là nguồn suối sinh hóa của cơ thể người, lại là thể hiện trập trung sự hoạt động sinh mạng, nó đại biểu cho sự mạnh yếu của năng lực kháng bênh, quyết định sự thịnh suy của sinh cơ, cho nên thời khắc duy trì chính khí là trên hết. Bệnh nhân bị ung thư đã phẫu thuật và chính khí suy yếu cực độ, chớ dùng thuốc loại trùng đục khoét chứng ung thư.
Đọc thêm..
Cuống hồng tươi vị đắng, chát, tính bình. Vào kinh phế nên có tác dụng chữa chứng nấc rất hiệu quả. Thành phần chủ yếu là acid terpenes, acid quả, đường gluco, tanin.

Cuống hồng tươi chữa nấc

Cách chữa nấc bằng cuống hồng tươi

Phương thuốc: 6 cuống hồng tươi, 6g công đinh hương, 9g uất kim, 6g gừng sống.

Cách dùng: Nấu canh, không hạn chế khi dùng.


Chủ trị: Vị hàn khí trệ dẫn đến nấc.

Trị nấc bằng cuống hồng tươi

Cuống hồng tươi vị đắng, chát, tính bình. Vào kinh phế nên có tác dụng chữa chứng nấc rất hiệu quả. Thành phần chủ yếu là acid terpenes, acid quả, đường gluco, tanin.

Cuống hồng tươi chữa nấc

Cách chữa nấc bằng cuống hồng tươi

Phương thuốc: 6 cuống hồng tươi, 6g công đinh hương, 9g uất kim, 6g gừng sống.

Cách dùng: Nấu canh, không hạn chế khi dùng.


Chủ trị: Vị hàn khí trệ dẫn đến nấc.
Đọc thêm..
Xơ gan trướng nước là căn bệnh tuy không phổ biến nhưng rất thường gặp ở những người đàn ông tuổi trung niên. Bênh gan trướng nước thường do thói quen ăn uống không lành mạnh mà ra.

Bệnh xơ gan trướng nước


Bài thuốc chữa xơ gan trướng nước hiệu quả

Chia sẻ tới bạn đọc 3 bài thuốc trị xơ gan trướng nước được đúc kết nhiều đời:


1. Trị xơ gan trướng nước bằng củ cải tươi

Củ cải tươi vị cay, ngọt, tính mát. Vào kinh phổi, dạ dày. Thành phần chủ yếu là đường gluco, đường mía và đường quả, thuần lưu huỳnh mai, glucozid thái phục, vitamin C.

Phương thuốc: 500g củ cải tươi, 10g xuyên ngưu đằng, 10g hoài ngưu đằng, 12g thương truật, 12g bạch truật, 12g phòng kỷ, 10g vỏ đại phục, 10g vỏ hoàng kỳ, 15g vỏ phục linh, 3g vỏ gừng sống.

Cách dùng: Củ cải tươi và những vị thuocs trên thêm vào 1 lít nước, nấu chín bỏ bã lấy nước thuốc uống, mỗi ngày 1 thang, 10 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Xơ gan trướng nước.

Hiệu quả trị liệu: Năm 1987 – 1993, quan sát 22 bệnh nhân xơ gan trướng nước: 14 bệnh nhân trướng nước ở độ nhẹ, trung, sau khi uống hết 3 liệu trinh thuốc, trướng nước tiêu mất, trong đó có 8 trường hợp, sau 3 năm kiểm tra lại chưa tái phát; 6 bệnh nhân điều trị 45 ngày, trướng nước tiêu mất, thể trạng cải thiện; 2 bệnh nhân trướng nước mức độ nặng không có hiệu quả.

Ví dụ: Một bệnh nhân nam 32 tuổi, năm 1987 bị viêm gan siêu vi B, xơ gan trướng nước độ trung. Đau nhiều bên dưới sườn phải, gan sưng lớn, chất cứng, chán ăn, tiểu tiện vàng đỏ, bợ lưỡi trắng mỏng, mạch yếu. Sau khi uống một liệu trình thuốc, trướng nước giảm phân nửa, ăn muống tăng thêm; sau đó uoogns thêm 15 thang, trướng nước hoàn toàn tiêu mất, tinh thần chuyển tốt. Sau 2 tháng điều trị kiểm tra lại, kháng nguyên bề mặt chuyển thành dương tính, chỉ số chức năng gan bình thường, sau nửa năm nghỉ ngơi làm việc, đến nay chưa tái phát.

Dùng thang thuốc củ cải tươi, hiệu quả điều trị rõ ràng tốt. Củ cải có thể khử hành hạ khí, lợi thủy tiêu thúng, thanh khiết đường ruột, mềm hóa cục trong bụng, thwucj là một vị thuốc tốt. Phối hợp với thuốc lợi thấp, hành thủy, tiêu thủng, có thể nâng cao tác dụng hiệu quả của thuốc. Sau khi uống thang thuốc củ cải, bệnh nhân thường cảm thấy vị tràng nhu động thêm nhanh, tác dụng thấm vào bụng, ấm khí phóng tỳ, thượng thông hạ đạt, đại tiểu tiện tăng nhiều. Tỳ vị khỏe mạnh thì lục phủ hòa, các thể chứng cũng theo đó cải thiện.


2. Chữa xơ gan bụng trướng nước bằng da con cóc

Tính vị da cóc quy kinh, thành phần thấy rõ “da cóc trị trẻ em cam tích”.

Phương thuốc: 6g da cóc, 3 con dế mèn, 12g phòng kỷ, 12g vò hoàng kỳ, 12g xuyên ngưu đằng, 12g táo lớn.

Cách dùng: Những vị thuocs trên ngâm nước 10 phút, lấy 200ml nước thuốc, mỗi ngày 1 thang, chia 2 lần uống, 7 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: xơ gan trướng nước.

Hiệu quả trị liệu: Dùng phương thuốc trên điều trị 8 trường hợp, trong đó 4 trường hợp uống 2 liệu trình thuốc, trướng nước tiêu mất, chứng trạng chuyển biến tốt, đổi uống thuốc lợi thủy ôn dương phù chính kiện tỳ, để củng cố hiệu quả trị liệu; 4 trường hợp sau khi trướng nước tiêu mất lại tái phát.

3. Trị bụng trướng nước bằng dưa hấu

Tính vị dưa hấu quy kinh, thành phần thấy rõ “dưa hấu trị thương hàn”.

Phương thuốc: 1 trái dưa hấu, 120g sa nhân, 120g hắc xú, 120g bạch xú.

Cách dùng: Trên đầu quả dưa hấu cắt một miếng, bỏ ruột dưa, giữ lại vỏ dưa, nhét các vị thuốc vào; lại lấy miếng dưa cắt nãy đậy lên, sau đó dùng đất sét bao quanh trái dưa, phơi nắng cho khô, nghiền thành bột. Mõi ngày uống 2 lần (sáng, chiều), mỗi lần 2 – 3g, dùng nước nóng uống vào. Sau khi trướng nước tiêu mất, cấm ăn muối và các vật hôi tanh: tôm, cá, ba ba.

Chủ trị: Xơ gan trướng nước, viêm thận bụng nước, thũng nước do dinh dưỡng không tốt.

Hiệu quả trị liệu: Điều trị 3 trường hợp xơ gan trướng nước, uống 2 tháng thuốc thì trướng nước tiêu mất; điều trị 2 trường hợp viêm thận trướng nước, uống thuốc 35 ngày trướng nước cũng tiêu mất. Thông thường uống thuốc 3 – 5 ngày, tiểu tiện tăng nhiều, sau 10 ngày trướng nước dần dần giảm bớt.

Bài thuốc chữa xơ gan trướng nước

Xơ gan trướng nước là căn bệnh tuy không phổ biến nhưng rất thường gặp ở những người đàn ông tuổi trung niên. Bênh gan trướng nước thường do thói quen ăn uống không lành mạnh mà ra.

Bệnh xơ gan trướng nước


Bài thuốc chữa xơ gan trướng nước hiệu quả

Chia sẻ tới bạn đọc 3 bài thuốc trị xơ gan trướng nước được đúc kết nhiều đời:


1. Trị xơ gan trướng nước bằng củ cải tươi

Củ cải tươi vị cay, ngọt, tính mát. Vào kinh phổi, dạ dày. Thành phần chủ yếu là đường gluco, đường mía và đường quả, thuần lưu huỳnh mai, glucozid thái phục, vitamin C.

Phương thuốc: 500g củ cải tươi, 10g xuyên ngưu đằng, 10g hoài ngưu đằng, 12g thương truật, 12g bạch truật, 12g phòng kỷ, 10g vỏ đại phục, 10g vỏ hoàng kỳ, 15g vỏ phục linh, 3g vỏ gừng sống.

Cách dùng: Củ cải tươi và những vị thuocs trên thêm vào 1 lít nước, nấu chín bỏ bã lấy nước thuốc uống, mỗi ngày 1 thang, 10 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Xơ gan trướng nước.

Hiệu quả trị liệu: Năm 1987 – 1993, quan sát 22 bệnh nhân xơ gan trướng nước: 14 bệnh nhân trướng nước ở độ nhẹ, trung, sau khi uống hết 3 liệu trinh thuốc, trướng nước tiêu mất, trong đó có 8 trường hợp, sau 3 năm kiểm tra lại chưa tái phát; 6 bệnh nhân điều trị 45 ngày, trướng nước tiêu mất, thể trạng cải thiện; 2 bệnh nhân trướng nước mức độ nặng không có hiệu quả.

Ví dụ: Một bệnh nhân nam 32 tuổi, năm 1987 bị viêm gan siêu vi B, xơ gan trướng nước độ trung. Đau nhiều bên dưới sườn phải, gan sưng lớn, chất cứng, chán ăn, tiểu tiện vàng đỏ, bợ lưỡi trắng mỏng, mạch yếu. Sau khi uống một liệu trình thuốc, trướng nước giảm phân nửa, ăn muống tăng thêm; sau đó uoogns thêm 15 thang, trướng nước hoàn toàn tiêu mất, tinh thần chuyển tốt. Sau 2 tháng điều trị kiểm tra lại, kháng nguyên bề mặt chuyển thành dương tính, chỉ số chức năng gan bình thường, sau nửa năm nghỉ ngơi làm việc, đến nay chưa tái phát.

Dùng thang thuốc củ cải tươi, hiệu quả điều trị rõ ràng tốt. Củ cải có thể khử hành hạ khí, lợi thủy tiêu thúng, thanh khiết đường ruột, mềm hóa cục trong bụng, thwucj là một vị thuốc tốt. Phối hợp với thuốc lợi thấp, hành thủy, tiêu thủng, có thể nâng cao tác dụng hiệu quả của thuốc. Sau khi uống thang thuốc củ cải, bệnh nhân thường cảm thấy vị tràng nhu động thêm nhanh, tác dụng thấm vào bụng, ấm khí phóng tỳ, thượng thông hạ đạt, đại tiểu tiện tăng nhiều. Tỳ vị khỏe mạnh thì lục phủ hòa, các thể chứng cũng theo đó cải thiện.


2. Chữa xơ gan bụng trướng nước bằng da con cóc

Tính vị da cóc quy kinh, thành phần thấy rõ “da cóc trị trẻ em cam tích”.

Phương thuốc: 6g da cóc, 3 con dế mèn, 12g phòng kỷ, 12g vò hoàng kỳ, 12g xuyên ngưu đằng, 12g táo lớn.

Cách dùng: Những vị thuocs trên ngâm nước 10 phút, lấy 200ml nước thuốc, mỗi ngày 1 thang, chia 2 lần uống, 7 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: xơ gan trướng nước.

Hiệu quả trị liệu: Dùng phương thuốc trên điều trị 8 trường hợp, trong đó 4 trường hợp uống 2 liệu trình thuốc, trướng nước tiêu mất, chứng trạng chuyển biến tốt, đổi uống thuốc lợi thủy ôn dương phù chính kiện tỳ, để củng cố hiệu quả trị liệu; 4 trường hợp sau khi trướng nước tiêu mất lại tái phát.

3. Trị bụng trướng nước bằng dưa hấu

Tính vị dưa hấu quy kinh, thành phần thấy rõ “dưa hấu trị thương hàn”.

Phương thuốc: 1 trái dưa hấu, 120g sa nhân, 120g hắc xú, 120g bạch xú.

Cách dùng: Trên đầu quả dưa hấu cắt một miếng, bỏ ruột dưa, giữ lại vỏ dưa, nhét các vị thuốc vào; lại lấy miếng dưa cắt nãy đậy lên, sau đó dùng đất sét bao quanh trái dưa, phơi nắng cho khô, nghiền thành bột. Mõi ngày uống 2 lần (sáng, chiều), mỗi lần 2 – 3g, dùng nước nóng uống vào. Sau khi trướng nước tiêu mất, cấm ăn muối và các vật hôi tanh: tôm, cá, ba ba.

Chủ trị: Xơ gan trướng nước, viêm thận bụng nước, thũng nước do dinh dưỡng không tốt.

Hiệu quả trị liệu: Điều trị 3 trường hợp xơ gan trướng nước, uống 2 tháng thuốc thì trướng nước tiêu mất; điều trị 2 trường hợp viêm thận trướng nước, uống thuốc 35 ngày trướng nước cũng tiêu mất. Thông thường uống thuốc 3 – 5 ngày, tiểu tiện tăng nhiều, sau 10 ngày trướng nước dần dần giảm bớt.
Đọc thêm..
Ba ba vị mặn, tính hàn, có độc. Vào kinh tâm, gan, tỳ. Ba ba có tác dụng trị sưng tỳ rất tốt.

Ba ba trị sưng tỳ

Cách chữa sưng tỳ bằng ba ba

Phương thuốc: 20g ba ba, 30g mai ba ba, 30g đảng sâm, 30g hoàng kỳ, 15g hoa hồng, 30g đương qui, 15g bọ hung, 30g đào nhân, 9g thăng ma.

Cách dùng: Những vị thuốc trên nghiền thành bột, thêm vào ít nước vo viên bằng hạt đầu xanh, mỗi lần uống 6 – 8g, ngày 2 lần (sáng, chiều), dùng nước canh táo lớn uống vào, 1 tháng cho một liệu trình.

Chủ trị: Sau khi bị sốt rét lâu ngày tỳ sưng lớn.


Hiệu quả trị liệu: Phương thuốc này mềm cứng tan kết, bổ huyết hoạt huyết, phá ứ sinh tân, là một trong những phương thuốc sư truyền có hiệu quả trị liệu tốt hơn. Năm 1946 – 1948, điều trị 5 trường hợp, bệnh nhân sau khi uống 4 liệu trình thuốc, tỳ có sự thu nhỏ ở mức độ không giống nhau, sốt rét dừng chưa tái phát.

Chữa sưng tỳ bằng ba ba

Ba ba vị mặn, tính hàn, có độc. Vào kinh tâm, gan, tỳ. Ba ba có tác dụng trị sưng tỳ rất tốt.

Ba ba trị sưng tỳ

Cách chữa sưng tỳ bằng ba ba

Phương thuốc: 20g ba ba, 30g mai ba ba, 30g đảng sâm, 30g hoàng kỳ, 15g hoa hồng, 30g đương qui, 15g bọ hung, 30g đào nhân, 9g thăng ma.

Cách dùng: Những vị thuốc trên nghiền thành bột, thêm vào ít nước vo viên bằng hạt đầu xanh, mỗi lần uống 6 – 8g, ngày 2 lần (sáng, chiều), dùng nước canh táo lớn uống vào, 1 tháng cho một liệu trình.

Chủ trị: Sau khi bị sốt rét lâu ngày tỳ sưng lớn.


Hiệu quả trị liệu: Phương thuốc này mềm cứng tan kết, bổ huyết hoạt huyết, phá ứ sinh tân, là một trong những phương thuốc sư truyền có hiệu quả trị liệu tốt hơn. Năm 1946 – 1948, điều trị 5 trường hợp, bệnh nhân sau khi uống 4 liệu trình thuốc, tỳ có sự thu nhỏ ở mức độ không giống nhau, sốt rét dừng chưa tái phát.
Đọc thêm..
Hoa mai đài xanh là một loại của hoa mai có tác dụng trị can uất rất tốt. Hoa mai có đỏ, trắng, đài xanh và lá ngàn, lá đơn, chỉ có loại đài xanh lá đơn là được đưa vào làm thuốc tốt đặc biệt.

Hoa mai đài xanh trị can uất

Hoa mai đài xanh vị chua, chát, tính bình. Vào kinh gan, phổi. Nụ hoa phát huy chất dầu, thành phần chủ yếu là acid benzoic, phenol dầu đinh hương khác, anilin.

Chữa can uất bằng hoa mài đài xanh

Phương thuốc: 10g hoa mai đài xanh, 10g sài hồ, 10g quảng mộc hương, 10g quảng uất kim, 10g chế hương phụ, 10g thành bì sao, 10g trần bì sao, 10g chỉ xác sao.

Cách dùng: Những vị thuốc trên thêm vào 600ml nuwcos , nấu 15 phút, lấy 200 – 300ml nước thuốc, mỗi ngày 1 thang, chia làm 2 lần uống (sáng, chiều), 10 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Chứng gan khí uất kết, bụng khó chịu, ngực nặng thở yếu, hai bên sườn sưng đau.

Hiệu quả trị liệu: Người trước điều trị chứng gan uất, dùng “sài hồ thông gan uống” và “tiêu diêu tán” làm phương thuốc tiêu biểu. Ý của người xưa, nay phối hợp trọng dụng hoa mai đài xanh tươi, để thông gan lý khí, khai uất tan kết. Tổng cộng điều trị 28 trường hợp bệnh sưng đau buống sữa, kinh nguyệt không đều, gan dạ dày đau hơi, đều thu được hiệu quả như ý.


Hoa mai phẩm chất cao nhã, khéo lý khí gan, người đời lơ đãng nó, cho nên xưa nay ghi lại không nhiều. “Bản thảo cương mục” nói: “phương thuốc hoa mai trắng xưa chưa thấy người dùng”. “Trăm hoa cảnh” ghi: “khai vị tan uất, nấu cháo ăn, trợ khí thanh dương tăng lên”. “Ẩm phiến tân sâm” ghi: “ăn uống hoa mai đài xanh bình gan hòa vị, dừng đau dạ dày, choáng đầu”. Tiết Sinh Bạch đời Thanh nói: “dùng để thông thượng hạ cách khí có hiệu quả”.

Cách chữa can uất bằng hoa mai đài xanh

Hoa mai đài xanh là một loại của hoa mai có tác dụng trị can uất rất tốt. Hoa mai có đỏ, trắng, đài xanh và lá ngàn, lá đơn, chỉ có loại đài xanh lá đơn là được đưa vào làm thuốc tốt đặc biệt.

Hoa mai đài xanh trị can uất

Hoa mai đài xanh vị chua, chát, tính bình. Vào kinh gan, phổi. Nụ hoa phát huy chất dầu, thành phần chủ yếu là acid benzoic, phenol dầu đinh hương khác, anilin.

Chữa can uất bằng hoa mài đài xanh

Phương thuốc: 10g hoa mai đài xanh, 10g sài hồ, 10g quảng mộc hương, 10g quảng uất kim, 10g chế hương phụ, 10g thành bì sao, 10g trần bì sao, 10g chỉ xác sao.

Cách dùng: Những vị thuốc trên thêm vào 600ml nuwcos , nấu 15 phút, lấy 200 – 300ml nước thuốc, mỗi ngày 1 thang, chia làm 2 lần uống (sáng, chiều), 10 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Chứng gan khí uất kết, bụng khó chịu, ngực nặng thở yếu, hai bên sườn sưng đau.

Hiệu quả trị liệu: Người trước điều trị chứng gan uất, dùng “sài hồ thông gan uống” và “tiêu diêu tán” làm phương thuốc tiêu biểu. Ý của người xưa, nay phối hợp trọng dụng hoa mai đài xanh tươi, để thông gan lý khí, khai uất tan kết. Tổng cộng điều trị 28 trường hợp bệnh sưng đau buống sữa, kinh nguyệt không đều, gan dạ dày đau hơi, đều thu được hiệu quả như ý.


Hoa mai phẩm chất cao nhã, khéo lý khí gan, người đời lơ đãng nó, cho nên xưa nay ghi lại không nhiều. “Bản thảo cương mục” nói: “phương thuốc hoa mai trắng xưa chưa thấy người dùng”. “Trăm hoa cảnh” ghi: “khai vị tan uất, nấu cháo ăn, trợ khí thanh dương tăng lên”. “Ẩm phiến tân sâm” ghi: “ăn uống hoa mai đài xanh bình gan hòa vị, dừng đau dạ dày, choáng đầu”. Tiết Sinh Bạch đời Thanh nói: “dùng để thông thượng hạ cách khí có hiệu quả”.
Đọc thêm..
Dịch mật heo tươi mới vị đắng tính hàn, vào kinh gan, mật, phổi, đại tràng. Thành phần chủ yếu là các loại acid dịch mật, sắc tố mật, protein đặc, chất béo và muối vô cơ. “Bản thảo cương mục” ghi: “thầy thuốc dùng mật heo, lấy hàn của nó thắng nhiệt,  hoạt năng nhận táo, đắng có thể vào tim, lại có thể khử hỏa của gan, mật”. Nó đã khái quát tính vị, quy kinh và công dụng của dịch mật heo, đời sau dùng rất nhiều phương pháp trị bệnh dịch mật heo, hoàn toàn dựa vào đây mà thêm giảm. Dùng dịch mật heo tươi mới phối hợp thành “mật heo tan sạn”, điều trị chứng sạn đường mật.

Cách chữa bệnh sạn mật bằng mật heo

Phương thuốc: 4 cái mật heo tươi mới, 20g xuyên úc kim, 20g khương hoàng, 10g phèn chua, 20g thanh đại (bột chàm).

Cách dùng: Mật heo tươi mới để lên ngói sấy khô, giòn (không nên quá khô), nghiền thành bột; xuyên uất kim, khương hoàng nghiền thành bột, phèn chua, thanh đại nghiền thành bột. Trộn đều các bột thuốc, bỏ vào túi nilong, mỗi viên 0.5g, người lớn mỗi lần uống 4 – 5 viên, ngày uống 3 lần, 15 ngày cho một liệu trình, dùng chung với “canh đại hoàng bài trừ sạn”.

Chủ trị: sạn túi mật, sạn ống dẫn mật, sạn ống mật trong gan và sạn dạng bùn.

Hiệu quả trị liệu: điều trị 21 trường hợp sạn túi mật, trong đó 12 trường hợp thaanhf công việc đưa sạn ra ngoài (9 trường hợp sạn được bài trừ sạch, 3 trương fhowpj sạn đưa ra không hết), 9 trường hợp không hiệu quả; điều trị 5 trường hợp sạn dạng bùn, hoàn toàn khỏi hẳn.

Ví dụ: Một bệnh nhân nữ 43 tuổi, nông dân; ngày 9 tháng 7 năm 1992, được kiểm tra, CT báo cáo trong túi mật thấy bóng viên sạn khoảng 0.1cmx1cm, chẩn đoán là sạn túi mật, uống mật heo bài sạn 3 liệu trình. Ngày 4 tháng 9 năm 1992, kiểm tra CT lại, gan mật chưa phát hiện khác thường. Sau đó liên tiếp kiểm tra vết tích, đều chưa phát hiện bóng sạn.


Một bệnh nhân nam 31 tuổi, ngày 23 tháng 4 năm 1990, kiểm tra phát hiện: củng mạng nhiễm vàng, tiểu tiện đỏ, ít, sườn phải sưng đau, bợ lưỡi vàng. Kiểm tra sinh hóa: acid amin chuyển hoa 48 đơn vị men, chỉ số vàng da 186 đơn vị, kiểm tra siêu âm chẩn đoán là sạn dạng bùn, uống mật heo bài sạn 2 liệu trình, đại tiện liên tiếp 4 ngày đưa ra hàng loạt sạn nhỏ, tiếp tục uống 2 liệu trình thuốc, bài tiết sạch sạn, triệu chứng toàn thân tiêu mất, thuyên giảm đến nay chưa tái phát.

Cách chữa sạn mật bằng mật heo

Dịch mật heo tươi mới vị đắng tính hàn, vào kinh gan, mật, phổi, đại tràng. Thành phần chủ yếu là các loại acid dịch mật, sắc tố mật, protein đặc, chất béo và muối vô cơ. “Bản thảo cương mục” ghi: “thầy thuốc dùng mật heo, lấy hàn của nó thắng nhiệt,  hoạt năng nhận táo, đắng có thể vào tim, lại có thể khử hỏa của gan, mật”. Nó đã khái quát tính vị, quy kinh và công dụng của dịch mật heo, đời sau dùng rất nhiều phương pháp trị bệnh dịch mật heo, hoàn toàn dựa vào đây mà thêm giảm. Dùng dịch mật heo tươi mới phối hợp thành “mật heo tan sạn”, điều trị chứng sạn đường mật.

Cách chữa bệnh sạn mật bằng mật heo

Phương thuốc: 4 cái mật heo tươi mới, 20g xuyên úc kim, 20g khương hoàng, 10g phèn chua, 20g thanh đại (bột chàm).

Cách dùng: Mật heo tươi mới để lên ngói sấy khô, giòn (không nên quá khô), nghiền thành bột; xuyên uất kim, khương hoàng nghiền thành bột, phèn chua, thanh đại nghiền thành bột. Trộn đều các bột thuốc, bỏ vào túi nilong, mỗi viên 0.5g, người lớn mỗi lần uống 4 – 5 viên, ngày uống 3 lần, 15 ngày cho một liệu trình, dùng chung với “canh đại hoàng bài trừ sạn”.

Chủ trị: sạn túi mật, sạn ống dẫn mật, sạn ống mật trong gan và sạn dạng bùn.

Hiệu quả trị liệu: điều trị 21 trường hợp sạn túi mật, trong đó 12 trường hợp thaanhf công việc đưa sạn ra ngoài (9 trường hợp sạn được bài trừ sạch, 3 trương fhowpj sạn đưa ra không hết), 9 trường hợp không hiệu quả; điều trị 5 trường hợp sạn dạng bùn, hoàn toàn khỏi hẳn.

Ví dụ: Một bệnh nhân nữ 43 tuổi, nông dân; ngày 9 tháng 7 năm 1992, được kiểm tra, CT báo cáo trong túi mật thấy bóng viên sạn khoảng 0.1cmx1cm, chẩn đoán là sạn túi mật, uống mật heo bài sạn 3 liệu trình. Ngày 4 tháng 9 năm 1992, kiểm tra CT lại, gan mật chưa phát hiện khác thường. Sau đó liên tiếp kiểm tra vết tích, đều chưa phát hiện bóng sạn.


Một bệnh nhân nam 31 tuổi, ngày 23 tháng 4 năm 1990, kiểm tra phát hiện: củng mạng nhiễm vàng, tiểu tiện đỏ, ít, sườn phải sưng đau, bợ lưỡi vàng. Kiểm tra sinh hóa: acid amin chuyển hoa 48 đơn vị men, chỉ số vàng da 186 đơn vị, kiểm tra siêu âm chẩn đoán là sạn dạng bùn, uống mật heo bài sạn 2 liệu trình, đại tiện liên tiếp 4 ngày đưa ra hàng loạt sạn nhỏ, tiếp tục uống 2 liệu trình thuốc, bài tiết sạch sạn, triệu chứng toàn thân tiêu mất, thuyên giảm đến nay chưa tái phát.
Đọc thêm..
Sạn mật là khi mật kết tinh thành hạt ở túi mật hay là ở ống dẫn mật. Bệnh khá thông thường, thấy nhiều ở đàn bà hơn đàn ông, nhất là người mập và lớn tuổi.

Sạn mật
Sạn mật
Thống kê ở Mỹ, cỡ tuổi ngoài 65, cứ 5 người thì một người có sạn mật. Tuy nhiên, nhiều người có sạn mà không thấy triệu chứng gì, và suốt đời không có biến chứng gì.

Chỉ có một phần trong số những người có sạn thấy triệu chứng đi khám rồi mới biết.

Dù vậy con số người mổ sạn mật cũng khá nhiều, mỗi năm có cả trăm ngàn người.

Chữa sạn mất bằng canh đại hoàng

Sạn mật kết thành ở túi mật, có khi di chuyên xuống ống dẫn mật. Ngoài vụ tắc nghẽn lên cơn đau, còn có thể sinh nhiễm trùng, không những tại chỗ, mà còn làm nhiễm trùng gan, lá mía hay là lan tràn thành nhiễm trùng máu, tất cả đều có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Đại hoàng sống là một trong ‘tứ đại kim cương”, giá trị dược dụng rất cao, là một dược vật quan trọng nhất để điều trị chứng cấp của y dược Trung Quốc, cũng là vị thuốc tốt nổi tiếng để điều trị các loại bệnh. Công hiệu hiển hách của nó, hiệu quả nổi bật đã được “Bản thảo chính nghĩa” ghi: “dùng sống, toàn lực của nó, nhanh chóng như dùng hoàn, qua một lần sẽ khỏi, trừ tà mà không thương chính khí”.

Đại hoàng sống vị đắng tính hàn. Vào kinh gan, dạ dày, đại tràng. Thành phần chủ yếu là các loại đường gluco và gốc glucozid có tác dụng tả hạ. Gốc glucozid chủ yếu là sinh vật thừa quinone antraxen, bao gồm phenol đại hoàng, chất đại hoàng, chất lô hội đại hoàng, acid đại hoàng, chất tanin đại hoàng, acid béo, đường gluco, đường quả và lượng lớn tinh bột.

Phương thuốc: 12 – 15g đại hoàng sống, 20 – 30g kim tiền thảo tươi, 9 – 12g bột nguyên minh, 9 – 12g chỉ thực sống (quả chấp), 15 – 20g hải kim sa, 9 – 12g quảng mộc hương, 9 – 12g xuyên uất kim, 9 – 12g kê nội kim.

Cách dùng: Những vị thuốc trên thêm nước vào ngâm 10 phút, nấu 20 phút, lấy 300ml nước thuốc, bỏ bột nguyên minh vào, chia ra làm 2 lần uống (sáng và chiều), 15 ngày cho một liệu trình, dùng chung với “mật heo tan sạn”.

Chủ trị: sạn mật.


Hiệu quả trị liệu: Tham khảo “mật heo trị sạn mật”.

Chữa sạn mật bằng canh đại hoàng

Sạn mật là khi mật kết tinh thành hạt ở túi mật hay là ở ống dẫn mật. Bệnh khá thông thường, thấy nhiều ở đàn bà hơn đàn ông, nhất là người mập và lớn tuổi.

Sạn mật
Sạn mật
Thống kê ở Mỹ, cỡ tuổi ngoài 65, cứ 5 người thì một người có sạn mật. Tuy nhiên, nhiều người có sạn mà không thấy triệu chứng gì, và suốt đời không có biến chứng gì.

Chỉ có một phần trong số những người có sạn thấy triệu chứng đi khám rồi mới biết.

Dù vậy con số người mổ sạn mật cũng khá nhiều, mỗi năm có cả trăm ngàn người.

Chữa sạn mất bằng canh đại hoàng

Sạn mật kết thành ở túi mật, có khi di chuyên xuống ống dẫn mật. Ngoài vụ tắc nghẽn lên cơn đau, còn có thể sinh nhiễm trùng, không những tại chỗ, mà còn làm nhiễm trùng gan, lá mía hay là lan tràn thành nhiễm trùng máu, tất cả đều có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Đại hoàng sống là một trong ‘tứ đại kim cương”, giá trị dược dụng rất cao, là một dược vật quan trọng nhất để điều trị chứng cấp của y dược Trung Quốc, cũng là vị thuốc tốt nổi tiếng để điều trị các loại bệnh. Công hiệu hiển hách của nó, hiệu quả nổi bật đã được “Bản thảo chính nghĩa” ghi: “dùng sống, toàn lực của nó, nhanh chóng như dùng hoàn, qua một lần sẽ khỏi, trừ tà mà không thương chính khí”.

Đại hoàng sống vị đắng tính hàn. Vào kinh gan, dạ dày, đại tràng. Thành phần chủ yếu là các loại đường gluco và gốc glucozid có tác dụng tả hạ. Gốc glucozid chủ yếu là sinh vật thừa quinone antraxen, bao gồm phenol đại hoàng, chất đại hoàng, chất lô hội đại hoàng, acid đại hoàng, chất tanin đại hoàng, acid béo, đường gluco, đường quả và lượng lớn tinh bột.

Phương thuốc: 12 – 15g đại hoàng sống, 20 – 30g kim tiền thảo tươi, 9 – 12g bột nguyên minh, 9 – 12g chỉ thực sống (quả chấp), 15 – 20g hải kim sa, 9 – 12g quảng mộc hương, 9 – 12g xuyên uất kim, 9 – 12g kê nội kim.

Cách dùng: Những vị thuốc trên thêm nước vào ngâm 10 phút, nấu 20 phút, lấy 300ml nước thuốc, bỏ bột nguyên minh vào, chia ra làm 2 lần uống (sáng và chiều), 15 ngày cho một liệu trình, dùng chung với “mật heo tan sạn”.

Chủ trị: sạn mật.


Hiệu quả trị liệu: Tham khảo “mật heo trị sạn mật”.
Đọc thêm..
Viêm túi mật là bệnh nguy hiểm gây ảnh hưởng đến chức năng của mật. Trị viêm túi mật bằng kim tiền thảo hiệu quả bởi kim tiền thảo tươi vị đắng, cay, tính mát. Vào kinh gan, mật. Thành phần chủ yếu dầu phát huy hương thơm, acid đắng, nhiều loại acid amin, tanin, bazơ mật.
Viêm túi mật
Viêm túi mật

Chữa viêm túi mật bằng kim tiền thảo

Kim tiền thảo tươi lại gọi là liên tiền thảo, đồng tiền thảo, phá đồng tiền, kin tiền thảo Giang Tô, là toàn thảo đơn hoạt huyết thực vật họ hình môi hoặc toàn thảo rễ dây.

Phương thuốc: 30g kim tiền thảo tươi (khô 15g), 3g ô mai, 6g khương hoàng, 9g sài hồ, 9g uất kim, 9g nhân trần, 9g mộc hương, 9g chế đại hoàng, 9g chỉ xác (vỏ quả chấp).

Cách dùng: Những vị thuốc trêm thêm nước vào nấu lấy 200ml nước thuốc, chia ra 2 lần uống (sáng, chiều), 10 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Viêm túi mật mạn tính, khi phát bệnh không đau sườn dữ dội, bùng sưng nặng khó chịu.

Hiệu quả trị liệu: Năm 1990 – 1993, điều trị 28 trường hợp viêm túi mật mạn tính, trong đó có 22 trường hợp sau khi dùng xong 1 liệu trình thuốc, thì cơ bản trị khỏi; 6 trường hợp dùng xong 2 liệu trình thuốc, thì cơ bản trị khỏi; 6 trường hợp dugnf xong 2 liệu trình thuốc,  tự cảm thấy triệu chứng chuyển biến tốt. Sau khi trị khỏi có vài bệnh nhân không chú ý ăn uống mà bị tài phát, tiếp tục uống hết một liệu trình thuốc nữa thì sẽ khỏi.

Hai vị ô mai, khương hoàng trong phương thuốc này. Trong thuốc lợi mật thêm vào 2 vị thuốc này, dẫn đến co thắt túi mật, thúc đẩy dịch mật bài tiết, hiệu quả bệnh tình giảm dần, ổn định và giảm bớt phát tác. Viêm túi mật mạn tính thường có sạn mật, ô mai có tính dùng mềm hóa sạn, thích hợp cho bệnh nhân bị sạn túi mật là chính.

Trị viêm túi mật mạn tính bằng kim tiền thảo

Viêm túi mật là bệnh nguy hiểm gây ảnh hưởng đến chức năng của mật. Trị viêm túi mật bằng kim tiền thảo hiệu quả bởi kim tiền thảo tươi vị đắng, cay, tính mát. Vào kinh gan, mật. Thành phần chủ yếu dầu phát huy hương thơm, acid đắng, nhiều loại acid amin, tanin, bazơ mật.
Viêm túi mật
Viêm túi mật

Chữa viêm túi mật bằng kim tiền thảo

Kim tiền thảo tươi lại gọi là liên tiền thảo, đồng tiền thảo, phá đồng tiền, kin tiền thảo Giang Tô, là toàn thảo đơn hoạt huyết thực vật họ hình môi hoặc toàn thảo rễ dây.

Phương thuốc: 30g kim tiền thảo tươi (khô 15g), 3g ô mai, 6g khương hoàng, 9g sài hồ, 9g uất kim, 9g nhân trần, 9g mộc hương, 9g chế đại hoàng, 9g chỉ xác (vỏ quả chấp).

Cách dùng: Những vị thuốc trêm thêm nước vào nấu lấy 200ml nước thuốc, chia ra 2 lần uống (sáng, chiều), 10 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Viêm túi mật mạn tính, khi phát bệnh không đau sườn dữ dội, bùng sưng nặng khó chịu.

Hiệu quả trị liệu: Năm 1990 – 1993, điều trị 28 trường hợp viêm túi mật mạn tính, trong đó có 22 trường hợp sau khi dùng xong 1 liệu trình thuốc, thì cơ bản trị khỏi; 6 trường hợp dùng xong 2 liệu trình thuốc, thì cơ bản trị khỏi; 6 trường hợp dugnf xong 2 liệu trình thuốc,  tự cảm thấy triệu chứng chuyển biến tốt. Sau khi trị khỏi có vài bệnh nhân không chú ý ăn uống mà bị tài phát, tiếp tục uống hết một liệu trình thuốc nữa thì sẽ khỏi.

Hai vị ô mai, khương hoàng trong phương thuốc này. Trong thuốc lợi mật thêm vào 2 vị thuốc này, dẫn đến co thắt túi mật, thúc đẩy dịch mật bài tiết, hiệu quả bệnh tình giảm dần, ổn định và giảm bớt phát tác. Viêm túi mật mạn tính thường có sạn mật, ô mai có tính dùng mềm hóa sạn, thích hợp cho bệnh nhân bị sạn túi mật là chính.
Đọc thêm..
Tính vị củ cải tươi quy kinh, thành phần thấy rõ “củ cải tươi trị xơ gan trướng nước”. Củ cải tươi trị viêm phổi do nhiễm oxyt silic rất hiệu quả.

Viêm phổi do nhiễm silic

Chữa viêm phổi do nhiễm oxyt silic bằng củ cải tươi

Phương thuốc: 5ml nước củ cải tươi, 5ml nước rễ tranh tươi, 5ml nước củ năn tươi, 12g thạch hộc tươi, 3g mè vàng, 9g xuyên bối mẫu, 9g ngưu bàng, 9g cát cánh, 9g lá tỳ bà, 6g kê nội kim, 9g chỉ xác (vỏ quả chấp).

Cách dùng: Thạch hộc tươi nấu; mè vàng, xuyên bối mẫu, ngưu bàng, cát cánh, lá tỳ bà, kê nội kim, chỉ xác thêm nước vào ngâm 15 phút, nấu 20 – 30 phút, lấy 150 – 200ml nước thuốc; bã thuốc thêm nước vào nấu 20 phút, lấy 50 – 100ml nước thuốc. Lấy hai nước thuốc hòa lại, thêm vào nước củ cải tươi, nước rễ tranh tươi, nước củ năn tươi. Mỗi ngày uống 3 lần (sáng, trưa và chiều), 15 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Lao phổi do nhiễm oxyt silic, ho nôn ra máu, đau ngực.

Hiệu quả trị liệu: Điều trị 3 trường hợp lao phổi do nhiễm oxyt silic thời kỳ đầu, uống 2 liệu trinh thuốc, giảm nhẹ triệu chứng ho đau ngực, dừng nôn máu. Qua 2 năm gián đoạn dùng thuốc, tự cảm thấy triệu chứng cơ bản tiêu mất, qua nhiều lần chụp X quang, phổi không thay đổi.

Xem thêm: Cách trị ho ra đờm bằng mướp tươi

Trị viêm phổi do nhiễm oxyt silic bằng củ cải tươi

Tính vị củ cải tươi quy kinh, thành phần thấy rõ “củ cải tươi trị xơ gan trướng nước”. Củ cải tươi trị viêm phổi do nhiễm oxyt silic rất hiệu quả.

Viêm phổi do nhiễm silic

Chữa viêm phổi do nhiễm oxyt silic bằng củ cải tươi

Phương thuốc: 5ml nước củ cải tươi, 5ml nước rễ tranh tươi, 5ml nước củ năn tươi, 12g thạch hộc tươi, 3g mè vàng, 9g xuyên bối mẫu, 9g ngưu bàng, 9g cát cánh, 9g lá tỳ bà, 6g kê nội kim, 9g chỉ xác (vỏ quả chấp).

Cách dùng: Thạch hộc tươi nấu; mè vàng, xuyên bối mẫu, ngưu bàng, cát cánh, lá tỳ bà, kê nội kim, chỉ xác thêm nước vào ngâm 15 phút, nấu 20 – 30 phút, lấy 150 – 200ml nước thuốc; bã thuốc thêm nước vào nấu 20 phút, lấy 50 – 100ml nước thuốc. Lấy hai nước thuốc hòa lại, thêm vào nước củ cải tươi, nước rễ tranh tươi, nước củ năn tươi. Mỗi ngày uống 3 lần (sáng, trưa và chiều), 15 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Lao phổi do nhiễm oxyt silic, ho nôn ra máu, đau ngực.

Hiệu quả trị liệu: Điều trị 3 trường hợp lao phổi do nhiễm oxyt silic thời kỳ đầu, uống 2 liệu trinh thuốc, giảm nhẹ triệu chứng ho đau ngực, dừng nôn máu. Qua 2 năm gián đoạn dùng thuốc, tự cảm thấy triệu chứng cơ bản tiêu mất, qua nhiều lần chụp X quang, phổi không thay đổi.

Xem thêm: Cách trị ho ra đờm bằng mướp tươi
Đọc thêm..
Rễ tranh tươi vị ngọt tính hàn dùng để trị phổi có mủ. Vào kinh phổi, dạ dày, thành phần chủ yếu là chất ý dĩ nhân, chất protein, chất béo, đường, amin axyla thiên môn đông, các loại đường.


Phổi có mủ

Chữa phổi có mủ bằng rễ tranh tươi

Phương thuốc: 100g rễ tranh tươi (rửa sạch, bỏ đốt), 30g rau giấp cá, 20g tử kim ngưu.

Cách dùng: Những vị thuốc trên thêm nước vào nấu lấy 500ml nước thuốc, uống thay trà, mỗi ngày 1 thang, 30 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Phổi sưng có mủ ho nôn ra đờm hôi kèm mủ máu, ngực đau dữ dội, viêm phổi sưng lớn, giãn khí quản ho ra đờm mủ và có mùi hôi.

Hiệu quả trị liệu: Dùng phương thuốc trên điều trị 5 trường hợp, có 3 bệnh nhân uống 2 tháng, dứng ho nôn mủ máu, chụp X quang chứng thực đã trị khỏi; 2 bệnh nhân uống thuốc 2 tháng, có chuyển biến tốt với các triệu chứng đau ngực, ho, nôn ra đờm hôi.

Xem thêm: Chia sẻ 2 bài thuốc trị bệnh lao hiệu quả

Rễ tranh tươi trị phổi có mủ

Rễ tranh tươi vị ngọt tính hàn dùng để trị phổi có mủ. Vào kinh phổi, dạ dày, thành phần chủ yếu là chất ý dĩ nhân, chất protein, chất béo, đường, amin axyla thiên môn đông, các loại đường.


Phổi có mủ

Chữa phổi có mủ bằng rễ tranh tươi

Phương thuốc: 100g rễ tranh tươi (rửa sạch, bỏ đốt), 30g rau giấp cá, 20g tử kim ngưu.

Cách dùng: Những vị thuốc trên thêm nước vào nấu lấy 500ml nước thuốc, uống thay trà, mỗi ngày 1 thang, 30 ngày cho một liệu trình.

Chủ trị: Phổi sưng có mủ ho nôn ra đờm hôi kèm mủ máu, ngực đau dữ dội, viêm phổi sưng lớn, giãn khí quản ho ra đờm mủ và có mùi hôi.

Hiệu quả trị liệu: Dùng phương thuốc trên điều trị 5 trường hợp, có 3 bệnh nhân uống 2 tháng, dứng ho nôn mủ máu, chụp X quang chứng thực đã trị khỏi; 2 bệnh nhân uống thuốc 2 tháng, có chuyển biến tốt với các triệu chứng đau ngực, ho, nôn ra đờm hôi.

Xem thêm: Chia sẻ 2 bài thuốc trị bệnh lao hiệu quả
Đọc thêm..